Tiến sĩ Georgi Lozanov, nhà tâm lý học nổi tiếng người Bulgaria, từng thực hiện một nghiên cứu trong đó ông cho những tình nguyện viên vừa học ngoại ngữ vừa nghe thể loại nhạc Baroque (nhạc Baroque là thể loại nhạc cổ điển thịnh hành vào thế kỷ 17-18 với các nhạc sĩ lỗi lạc như Bach, Vivaldi, …) với nhịp điệu 60 nhịp một phút. Sau một ngày học ngoại ngữ, những học sinh này sẽ trải qua một bài kiểm tra. Kết quả cho thấy cho thấy chỉ trong một ngày các đối tượng nghiên cứu có thể học số lượng từ đến 1000 từ mà bình thường phải mất một học kỳ mới học được.
[youtube_wpress search=”1″][youtube_wpress username=”wellnessrelax” nb_display=”3″][tubepress mode=”tag” tagValue=”Baroque” resultsPerPage=”5″ autoplay=”true” orderBy=”relevance” theme=”phim”]Hơn thế nữa, những học sinh trên có thể nhớ đến 92% những gì đã được học. Chỉ bằng việc lắng nghe nhạc Baroque khi đang học, thời lượng cần thiết để thông thạo một ngoại ngữ được giảm từ 2 năm xuống 30 ngày. Và những sinh viên tham gia nghiên cứu trên có khả năng nhớ những từ mình đã học thậm chí sau 4 năm mà không cần ôn tập.
Nhạc Baroque có những tác dụng cụ thể nào về mặt sinh lý học? Khi chúng ta lắng nghe theo nhịp điệu đều đặn của thể loại nhạc này, 60 nhịp một phút, nhịp tim, huyết áp và sóng não đều thư giãn theo điệu nhạc. Nhịp tim chậm lại, huyết áp giảm đi, sóng não beta giảm 6% trong khi sóng não alpha (thích hợp cho học tập và trí nhớ) tăng 6%. Âm nhạc giúp bạn đi vào trạng thái thư giãn nhưng tỉnh táo (relaxed alertness) – trạng thái tối ưu cho học tập và làm việc.
Sau đây là những liệt kê những bản nhạc có tác dụng hỗ trợ, kích thích việc học tập, nghiên cứu và làm việc. Bạn hãy khởi đầu buổi học bằng việc (1) thư giãn cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, (2) lắng nghe những bản nhạc này với âm lượng vừa phải, phù hợp với chính bạn.

Giới Thiệu lịch sử về nhạc baroque:
Thời Baroque tiếp nối thời Phục hưng và được coi như thời đại hoàng kim của âm nhạc. Khởi đầu vào đầu thế kỷ thứ 17 và kết thúc vào năm 1759 với cái chết của G.F. Handel. Tuy vậy, một số nhà sử nhạc lại cho rằng thời Baroque kết thúc năm 1750 với cái chết của J.S. Bach.
Bach và Handel sanh cách nhau 1 tháng, tuy nhạc mỗi người mỗi vẻ nhưng dòng nhạc của họ điển hình đến độ nếu tách họ riêng ra thì dòng nhạc Baroque thời đó xem ra không còn là nó nữa. Đây là thời của những tác phẩm đồ sộ về phẩm lẫn lượng cho violin và ngay cả cho opera (arias). Các nhạc sĩ lớn trong thời kì này:
![]() |
J.S. Bach (1685-1750) |
![]() |
George Frideric Handel (1685-1759) |
George Frideric Handel (1685-1759) : người anh gốc đức. Năm 12 tuổi khi còn ở Đức, đã được chọn chơi organ cho Vương cung thánh đường. Sau này học luật và sang Anh. Nhờ viết được 1 vở opera cho nữ hoàng Ann trong vỏn vẹn có 14 ngày, ông được nữ hoàng quí trọng và đặc cách phát lương trọn đời. Sau này còn được vua George I làm màn tăng lương. Trước tác của Handel rất đồ sộ : 46 vở operas, 32 oratorios và rất nhiều tác phẩm khác viết cho dàn nhạc . Sống độc thân, cuối đời ông cũng bị mù, chết và được đặc ân chôn trong Tu viện Wesminster (là nơi chỉ dành riêng cho hoàng gia Anh quốc)
Thời Baroque nhạc đã trở nên chuyên nghiệp hơn so với thời kì Phục Hưng trước đó . Các nhà soạn nhạc thời Baroque thừa hưởng di sản tài tử của các ‘nghệ nhân’ thời Renaissance, công nghiệp hóa âm nhạc một cách tinh xảo để nhạc biến thành nghệ thuật thứ thiệt và hàng đầu.
Barocco trong tiếng Portuguese là 1 viên ngọc trai đã được công phu mài dũa. Baroque tiếng pháp dùng để chỉ một kiểu kiến trúc và trang trí theo mode âu châu khi ấy, nhất là tại Ý vào đầu thế kỷ 18-19. Các nhà sử nhạc đã sử dụng chữ Baroque cho âm nhạc cùng thời.
Soạn nhạc gia thời Baroque rất đông. Cũng như Bach và Handel, họ phần lớn là người Đức. Tuy vậy có những tên tuỗi đáng kể của Ý :
![]() |
Antonio Vivaldi (1675-1741) |
![]() |
Arcangeco Corelli (1653-1713) |
![]() |
Giuseppe Tartini (1692-1770) |
Thời gian này hai nhạc sĩ có sức sáng tác mạnh cho clavier (nhạc cụ tiền thân của piano) là François Couperin –Pháp (1668-1733) và Dominico Scarlatti – Ý (1685-1757). Dominico Scarlatti viết tổng cộng 150 oratorios, khoảng 600 cantatas, nhạc thính phòng (chamber music) vv …. Cha của Dominico là Alessandro Scarlatti (1660-1725) đã viết hơn một trăm tác phẩm cho opera là người đã có công rất lớn trong việc phát triển ngành nghệ thuật này.
Vài tên tuổi đáng nhớ khác : Francesco Durante, Baldassare Galuppi, Leonardo Leo và Giovanni Battista Pergolesi. Tất cả đều là người Ý. Một số nhạc của Pegolesi đã được Igor Stravinsky phóng tác và xử dụng sau này.
![]() |
Jean Philippe Rameau (1683-1764) |
Cũng thế, ảnh hưởng Baroque đã theo Heinrich Schutz – Đức (1585-1672) và Dietrich Buxtehude – Thụy Điển (1637-1707) mà lan khắp Âu- châu. Handel năm 1706 lúc 21 tuổi đã qua Ý học nhạc trong 3 năm, nên rồi mặc dù nhạc Handel có phong thái riêng, nhưng mọi người không thể phủ nhận rằng trong nhạc Handel hơi hướm Ý ít nhiều có phảng phất.
Những tác phẩm nổi tiếng tiêu biểu cho oratorio :
Recitative : Từ chữ recitare trong tiếng latin, có nghĩa là kể chuyện. Nó chính là bài hát mào đầu luôn luôn đi trước một Aria hay Opera hay Oratorio.
Nguyên tắc này là bài nhạc được chơi hay hát với hai hay nhiều giọng khác nhau để làm nổi bật âm điệu chính. Thể loại Fugue thiệr ra không giản dị, nó có thể có tới 5 bè riêng rẽ quyện với nhau mặc dù không nhứt thiết chúng phải bắt đầu và kết thúc cùng một lúc. Mỗi bè có âm điệu riêng và hát theo cách đối đáp. Thí dụ sau đây cho thấy cách thức chính xác của một fugue 4 bè :
Thông thường thì Soprano và Contralto dành cho giọng nữ, còn Tenor và Bass dành cho nam. Cũng còn có những bè phụ khác như Alto (nữ) hay Baryton (nam) làm bài nhạc thêm sắc mầu (và lộn xộn khó nghe, than ôi phải thú thiệt như thế !). Thường khi các bé trai được huấn luyện để hát bè soprano và contralto trong trường hợp thiếu nhân sự (trong các ca đoàn đồng nam chẳng hạn)
Serenade theo nghĩa thông thường ngày nay là bài nhạc được chàng hát tặng cho nàng (nghĩa là để cua đào), đúng nghĩa nguyên thủy Serenade là bài nhạc được viết cho nhạc cụ chơi chung chớ không phải để hát.
Vài tác giả tiêu biểu thời Rococo :
François Couperin (1668-1733) : người pháp, cả gia đình ông đều là nhạc sĩ chơi organ cha truyền con nối trong 200 năm tại giáo đường St Gervais. Do ảnh hưởng của Arcangeco Corelli (xin xem ở trên) và J.S.Bach , ông đã viết cả 1 quyển sách dạy chơi harpsichord (tiền thân của đàn harp) và hơn 200 tác phẩm cho nhạc cụ này.
Georg Philip Telemann (1681-1767) : người đức, tự học nhạc và chơi organ, có thời điều khiển dàn nhạc Vương cung thánh đường Hamburg . Trước tác rất đồ sộ, nhạc ông nhẹ nhàng và … hời hợt. Sau này thì một số tác phẩm được các nhà soạn nhạc viết lại cho flute rất thành công.
Carl Philipp Emanual Bach (1714-1788) : người đức, con của J.S Bach (con thứ hai của bà vợ cả) Học luật trước khi chuyển qua nhạc, chơi và dạy Harsicorp cho hoàng triều của Đại đế Frederick ở Berlin. Có dạo thay thế Telemann làm nhạc trưởng tại thánh dường Hamburg. Tạo ảnh hưởng sâu đậm trên Haydn sau này.
Âm nhạc là yếu tố quan trọng đối với môi trường học tập giúp người học có khả năng học tập siêu tốc: nó phù hợp và tác động đến các động đến các điều kiện về sinh lý của con người. Trong suốt một ngày làm việc trí óc mệt mỏi, mạch và huyết áp của ta có chiều hướng tăng lên. Các sóng não sẽ tăng tốc độ, các cơ rã rời. Sau khi nghỉ ngơi thư giãn, mạch và huyết áp giảm xuống, các cơ linh họat hơn. Trong điều kiện bình thường, ta khó có thể tập trung khi đang ở tư thế hoàn toàn thư giãn, và cũng khó có thể thư giãn khi đang tập trung cao độ.
Sau một cuộc kiểm tra IQ được tiến hành tại Mỹ, các nhà khoa học nước này đã cho biết: nhóm học sinh được thư giãn bằng bản sô nát K488 của Mozart có kết quả trắc nghiệm IQ trung bình cao hơn nhóm khác từ 9 – 10 điểm.
Quét não bằng phương pháp cộng hưởng từ trường fMRI (functional magnetic resonance imaging) cho thấy: Tốc độ hoạt động tại nhiều khu vực trong não và nhiều hoạt động khác của trẻ được nghe nhạc Mozart trở nên nhanh nhạy hơn, năng động hơn bình thường.
Tăng cường chức năng thị giác: Đây là điều rất đáng ngạc nhiên, song quả thực là nhạc Mozart cũng góp phần cải thiện thị lực của con người.
Kết quả một cuộc thử nghiệm mới của các nhà khoa học về tác động của bản sô nát K448 đối với 60 bệnh nhân tại trường đại học y dược Sao Paolo đã hé mở những khả năng về việc vùng não kiểm soát chức năng thị giác của con người được tăng cường tốc độ phân tích, và xử lý hình ảnh với độ chính xác cao.
Giúp ổn định nhịp tim, giảm stress và phục hồi thần kinh: Nghe nhạc Mozart có thể khiến cho nhịp tim con người trở nên ổn định hơn.
Theo dõi khoảng 23 trường hợp thanh niên tình nguyện tham gia nghiên cứu, các bác sĩ thuộc bệnh viện Oberwalliser – Thuỵ Điển đã khẳng định: việc nghe nhạc rất ích lợi đối với bệnh tim.
Nó giúp cho bệnh nhân bị mắc bệnh tim giữ được trạng thái thư giãn, sảng khoái và giúp họ nhanh chóng hồi phục hơn bình thường. Trong nghiên cứu này, ngoài nhạc Mozart, các bác sĩ còn phát hiện thêm các bản nhạc của nhà soạn nhạc danh tiếng Bach cũng có những tác động ổn định nhịp tim tương tự.
Trẻ sơ sinh được nghe nhạc Mozart cũng giúp trẻ giảm được đáng kể nguy cơ mắc các vấn đề về thần kinh sau khi sinh. Trong quá trình nghe nhạc, một thiết bị camera đặt trong phòng ngủ đã ghi lại toàn bộ những hoạt động và biểu hiện của những đứa trẻ sơ sinh và đã công nhận âm nhạc Mozart đã có những ảnh hưởng tuyệt vời đến trạng thái tinh thần của trẻ. Những đứa trẻ nghe nhạc Mozart dường như trở nên vui vẻ và hoạt bát hơn những trẻ em khác.
Phần IV: Một số bản nhạc Baroque tốt cho công việc học tậpDưới đây là danh sách các bản nhạc Baroque mà bạn nên nghe tuỳ theo nhu cầu của mình:
Thư giãnHandel : concerto for harp and lute larghetto, op. 4, no.5Concerto for harp in F Major larghetto, op. 4, no. 5Concerto gross in C major (” Alexander’s feast “)Những bản nhạc hay:
J.S Bach suit 3 (“Air on a G string”)
Vivaldi ” four season” spring, largoAlbinoni Concerto for oboe in D minor, op.9J.S Bach concerto in F MinorPachelbel Canon in D MajorHandel concerto for harp and lute in B-Flat MajorViavaldi concerto in C major for piccoloNhững bản hoà nhạc nên ngheMozart converto no.21 in C Maork, K.467Beethoven piano concerto no.5 in E-flatVivaldi Flute Concerto no.3 inD maorPachelbel ” canon” from canon and gigueBeethoven Symphony no. 6Grieg Peer Gynt Suite Prelude, Act 4, morningMahler Symphony no.5Schubert Octet ub F major, D.803Những bản nhạc tượng hình:Beethoven Symphony no. 6
Grieg Peer Gynt Suite Prelude, Act 4, morningMahler Symphony no.5Schubert Octet ub F major, D.803Những bản nhạc mang tính kích hoạt trí não:
Betthoven : Concerto for violin and ochestra in D Major, op.61
Tchaikovsky : concerrto no.1 in B-Flat Minor for piano and OchestraMozart : concerto for violin and ochestra ; Concerto no.7 in D MajorHaydn: Symphony no.67 in F Major ; Symphony no.69 in B majorBeethoven Concerto n.5 in E-flat Major for piano and ochestra, op.73 (“emperor”)Beethoven Concerto for piano and ochestra no.5 in B-Flat MajorHaydn Symphony in C Major no. 121 (” L’ horloge”)Mozart Concerto for violin and ochestra in A Major no.5; symphony in A Major no.29; symphony in G Minor no.40Brahms Concerto for violin and ochestra in D Major, op.77Những bản nhạc giúp ôn bài:
Corelli Grrosi, op.6, no.2,8,5,9Handel ” Water music”J.S Bach Fantasy in G Major, fantasy in C Major, and Trio in D Minor; Canoic Variations and ToccataCorelli Corteo Grrosi, op.4, no.10,11,12Vivaldi Five concertos for plute and chamber orchestraHandel Concerto for organ and ochestra in B-Flat Major, op.7, no.6J.S Bach Prelude in G’Major.
Source: tham khảo