Bởi thông tin ấy, hậu thế sau này đã nhiều lần bỏ công tìm kiếm nhưng không thu được kết quả. Tuy nhiên nó vẫn là một nghi án thế kỷ được nhiều người quan tâm.
Lên ngôi lúc 1 tuổi, chết lúc 15 tuổi, có hàng trăm vợ nhưng không có người con nào… là những kỷ lục liên quan tới ngôi thiên tử của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Người Pháp đã 3 lần khai quật để tìm kho báu
Quá trình tìm hiểu về kho vàng bạc của vua Minh Mạng, chúng tôi được cụ N.B.T (83 tuổi, xin được giấu tên, là hậu duệ của một vị quan triều Nguyễn) cho biết: “Hồi còn nhỏ, tôi có nghe cha mình kể lại những câu chuyện về kho báu của nhà vua.
Chỉ biết rằng lời đồn về kho vàng ấy là có thật vì khu vực mà vua để vàng bạc trước kia được cho người canh giữ vô cùng cẩn mật. Theo truyền thuyết, thì sau khi khiêng hàng trăm thậm chí hàng ngàn rương vàng bạc, châu báu đặt vào các thạch thất, toán lính đã tình nguyện chết mang theo bí mật xuống mồ với tinh thần “vua kêu tử thần tử”. Chỉ duy nhất vua Minh Mạng là người nắm giữ mật đồ chôn các kho báu”.
|
Nơi chôn cất thi hài tượng trưng của vua Minh Mạng. |
Hàng thế kỷ qua, giai thoại kho báu khổng lồ bị thất truyền của vua Minh Mạng vẫn là thách thức lớn cho hậu thế. Nhiều lời đồn đại trong dân gian còn cho rằng, kho báu này đã bị “trấn yểm” để mãi mãi trở thành tài sản riêng cho các bậc đế vương Nguyễn triều khi về thế giới bên kia (?).
Mang chút manh mối ít ỏi này đến “gõ cửa” nhà nghiên cứu Phan Thuận An, chúng tôi được ông cho biết: “Tôi đang giữ một vài tài liệu cũng như những thông tin hiếm hoi liên quan đến kho tàng bí mật này của triều Nguyễn. Nguyên dưới thời vua Gia Long (1802 – 1819) và Minh Mạng (1820 – 1840), thực sự có chôn giấu hầm vàng bạc, châu báu trong lòng đất.
Đây là thời kỳ hưng thịnh nhất của vương triều nhà Nguyễn nên số của cải được cất giấu chắc chắn không hề nhỏ. Về sau, khi vua Minh Mạng qua đời, toàn bộ những thông tin liên quan đến kho tàng này đều theo ông về với lòng đất”.
Trong các tài liệu nhà Huế học Phan Thuận An sưu tầm được thì bộ sách Đại Nam nhất thống chí (tập Kinh sư), Đại Nam thực lục và Đại Nam Điển Lệ có nhắc đến kho báu của triều Nguyễn dưới thời vua Gia Long gọi là Nội Đồ Gia, được thiết lập ở phía tả của Hưng Khánh thuộc Tử Cấm Thành, qua năm đầu thời Minh Mạng được đổi tên là Nội vụ Phủ.
Cơ quan này quản lý 7 kho với 7 loại vật hạng khác nhau, trong đó kho vàng bạc là quan trọng nhất. Mỗi kho có 12 người chủ thủ canh giữ rất cẩn mật. Năm 1836, kiểm kê cho thấy hầm chứa vàng bạc ở kho này đã chứa đến 200.000 lượng vàng, bạc.
Đến năm 1838, kho vàng bạc này được vua Minh Mạng cho di dời và chỉ các đại thần thân cận như Phạm Hữu Tâm, Nguyễn Tăng Minh, Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên mới được chỉ định đến giám sát. Nơi kho báu này dời đến được cho là khu vực bên trái Hoàng thành (tức khuôn viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật ngày nay).
Thông tin hầm bạc đầu tiên của Vua Minh Mạng được phát hiện dưới thời vua Thành Thái. Nhưng khi đó, đất nước đã bị thực dân Pháp đô hộ. Theo đó, vào năm Thành Thái thứ 11 (1899), Khâm sứ Pháp Boulloche sau khi nhận được tin báo của Hoằng Trị quận vương Hồng Tố nói:
“Đời Vua Minh Mạng và Thiệu Trị có chôn nhiều bạc trong Đại Nội đã phái quan hội đồng (quận vương Hồng Tố, Thượng thư Bộ Công Nguyễn Thuật, Thượng thư Bộ Lễ Huỳnh Vĩ, Hội biện Sô Lê, Đô Ty, quận công Ưng Huy, Tham biện Tôn Thất Hoài Điển) và phát 100 phu khỏe theo nơi được chỉ đào và tìm thấy 1 hầm bạc ba vết (là loại bạc chuẩn của triều Nguyễn, trên thường có ba cụm chữ triện đóng riêng rời.
Khâm sứ đại thần bàn trích 30.000 nén do Thượng thư Bộ Hộ Trương Như Cương, Hội biện Đô Ty chở ra Ngân hàng Hải Phòng đổi lấy tiền chi biện các việc công ích”.
Đến năm 1915, liên tiếp hai hầm bạc khác được tìm thấy. Trong đó, một hầm khi đào lên kiểm biên phát hiện có đến 60 hòm gỗ với 10.000 hốt bạc và 1 đồng tiền đồng đỏ cùng khắc chữ Phú Thọ Đa Nam, 28 đồng tiền đồng và tấm bia đá khắc 16 chữ dịch nghĩa “Giáp Ngọ ngày tốt, mười vạn bạc ròng, lưu làm quốc dụng, ai dám riêng lòng”.
|
Vua Minh Mạng đã để lại một bí ẩn lớn cho hậu thế. |
Hầm bạc thứ ba thì được phát hiện khi những người thợ thi công đụng phải phiến đá lớn tại khu vực cửa Tường Loan. Quá trình đào tìm thấy 1 đồng tiền đồng đỏ, 28 tiền đồng, bia đá khắc 16 chữ với nội dung “Minh Mạng Giáp Ngọ, cất bạc trăm ngàn, của nước không thiếu, chất chứa muôn vàng” và 70 hòm gỗ, bên trong có 10.000 hốt bạc thỏi…
Như vậy theo chính sử nhà Nguyễn, đã có ba lần tìm thấy hầm bạc thời Vua Minh Mạng. Cả ba lần tìm kiếm kho báu ấy đều có sự hiện diện, giám sát chặt của người Pháp.
Cuộc khai quật cuối cùng
Gần 100 năm sau lần tìm kiếm cuối cùng của người Pháp, tưởng như sẽ không còn ai nhắc đến kho báu huyền thoại nữa thì trong Đại Nội lại diễn ra một cuộc tìm kiếm mà chưa có tài liệu nào được công bố.
Người viết chỉ biết đến sự kiện này từ những chia sẻ của nhà Huế học Phan Thuận An. Chính ông đã chứng kiến toàn bộ quá trình khai quật cũng như một số kết quả thu được từ cuộc đào bới chưa được công bố lần này.
Sự kiện diễn ra vào mùa Đông năm 1988. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An: “Lúc bấy giờ, một số cán bộ có thẩm quyền của Bộ Nội vụ (cũ) vào Bình Trị Thiên (cũ) phối hợp với Sở Công an và Tỉnh ủy để cho đào. Dĩ nhiên, mọi việc đều được tiến hành trong vòng bí mật.
Một góc của Tử Cấm thành bị phong tỏa và được canh gác kỹ lưỡng. Lực lượng đào gồm khoảng 10 người thuộc về lực lượng trinh sát chính trị và kinh tế của Sở Công an Bình Trị Thiên đóng tại Huế. Chính những người đào cũng chẳng được cho biết làm mình đang đào tìm gì, cứ nghĩ rằng có lẽ việc đào bới tìm tòi này liên quan đến một vụ án chính trị hoặc kinh tế nào đó. Hoặc đào hầm vũ khí chôn giấu từ trước năm 1945”.
“Trước hết, lực lượng tìm kiếm đào thám sát ba hố gần bờ hồ và gần một gốc cây đại thụ nằm không xa chân tường, phía trong của Tử Cấm Thành. Sau khoảng ba tuần đào bới thấy được một viên đá có hình thù và diện mạo hơi lạ, cỡ lớn hơn viên bờ lô.
Nó nằm ở bậc thềm xây để bước xuống một cái hầm nay đã bị lấp. Trên mặt viên đá có một dấu về khả nghi. Người ta đoán rằng có lẽ đó là chữ Hán viết thảo để cho biết kho vàng nằm ở đâu. Viên đá được đem về Sở Công an rồi dùng xe chở đi nhờ nhà sư ở các chùa và các vị túc nho ở Huế đọc chữ Hán ấy. Tất cả các vị đều không nhận ra là chữ gì.
Viên đá được đem về Phòng An ninh kinh tế của Sở Công an đặt vào tủ kính kèm theo hồ sơ nói về lai lịch và kích thước của nó. Sau đó mấy tuần, Sở Công an thông báo và mời Công ty quản lý di tích lịch sử và văn hóa Huế sang nhận viên đá về để nghiên cứu.
Được xem tận mắt, chúng tôi thấy các dấu vết hằn sâu trên một góc của mặt viên đá chỉ là một sự xói mòn tự nhiên, một hiện tượng thoái hóa của các thớ đá thiếu độ bền so với các thớ đá xung quanh. Hiện nay, viên đá vẫn còn để lại tại cơ quan này”, nhà nghiên cứu Hồ Thuận An khẳng định.
Tìm đến Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, chúng tôi không còn thấy viên đá nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhắc đến được trưng bày nữa. Ông Phan Thanh Hải – Giám đốc trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế cho biết: “Vì một số lý do, chúng tôi không thể cho người ngoài tiếp cận viên đá đó nữa. Nó chỉ dùng để phục vụ vào mục đích nghiên cứu của các nhà chuyên môn.
Nhưng cho tới giờ thì chúng tôi vẫn chưa nhận được kết quả nào có giá trị về hòn đá từ những nhà nghiên cứu. Cho dù đã có nhiều người tới xem xét và ghi lại những gì thể hiện trên bề mặt của viên đá này”.