Nhóm thứ hai: Tổng Thống Trump chỉ dọa Trung Cộng để buộc Bắc Kinh phải lép vế trước Hoa Kỳ trong vấn đề kinh tế, không thực sự có việc đánh Trung Cộng thật sự, cả về kinh tế lẫn quân sự. Không bao giờ có sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam lần thứ hai, cũng như không có việc chính phủ Mỹ buộc các nước Cộng Sản phải tôn trọng Nhân Quyền tại các nước nhỏ. Người Mỹ là những người Thực Dụng (Practicalism – Devotion to Practical Matters), nghĩa là nhất cử nhất động đều phải tính toán sao cho có lợi cho chính mình. Cho nên, chính phủ Mỹ sẽ đặt tất cả mọi chính sách toàn cầu lên bàn tính, xem việc “đánh” Trung Cộng sẽ đem lại lợi nhuận gì cho giới tư bản và đại tư bản. Nếu không Lợi, thì miễn bàn.
Hiện nay, hai quan điểm trái ngược trên đang được phổ biến rất mạnh trong cộng đồng Việt, khiến cho cộng đồng như đang có chiến tranh, bạn hữu lâu năm hay thân thuộc bỗng biến thành kẻ thù. Chiến hữu mạ lị chiến hữu y hệt như khi tấn công Việt Cộng. Đôi khi trong cùng một gia đình, bố mẹ và con cái “đánh võ miệng” với nhau tưng bừng. Trên mạng Email hay Facebook, người Việt rủa xả nhau tận tình, không ai còn nhớ thân phận mình chỉ là những người di tản vì chính trị, di cư vì kinh tế. Nhiều người Việt bỗng tự biến mình thành “NGƯỜI DA VÀNG THƯỢNG ĐẲNG – YELLOW SUPREMACIST” ngang ngửa với WHITE SUPREMACISTS để hạ bệ và nhục mạ người da đen, không khác gì một đảng KKK- da vàng.
Một số chế tạo Fake News, biến những tấm hình cựu Tổng Thống Obama và hình Đệ Nhất Phu Nhân Michelle trở thành đười ươi trong khi chính khả năng về học vấn, kiến thức của mình không đáng làm học trò của các vị đáng kính trên. Điều này đi ngược lại văn hóa Việt Nam là luôn tôn trọng các dân tộc khác, cũng như chứng tỏ cho thế giới thấy (nếu họ đọc được và xem được những fake news nhục mạ này) là dân Việt Nam gồm toàn những kẻ thiếu tư cách, thiếu học, và vô ơn, nếu không nói là mù quáng.
Vì thế, người viết bài này, môt lần nữa, lục lại lịch sử sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam trên 75 năm nay, nghĩa là lấy năm 1944 làm mốc, để xem thực tế, các chính phủ Mỹ (không muốn sử dụng chữ “Người Mỹ” vì nhiều khuynh hướng Mỹ khác nhau) có thực sự quan tâm đến vấn đề Việt Nam, chỉ vì muốn giúp Việt Nam phát triển trên phương diện vô vị lợi, với tình cảm của một người lãnh đạo Thế Giới Tự Do, một đàn anh, một nhà bảo trợ thiện nguyện, hay vì lý do nào khác.
Bài này được chia làm hai giai đoạn:
1. Giai đoạn 1944-1954
a- Mỹ yểm trợ Việt Minh: Trong giai đoạn cuối của cuộc Thế Chiến thứ Hai, Hoa Kỳ đã chú tâm đến lực lượng Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Một nhóm gián điệp OSS (US Office of Strategic Services) của Mỹ, do Thiếu Tá Archimedes Patti, cầm đầu, đã liên lạc với Hồ Chí Minh và nhảy dù xuống Lạng Sơn, giúp cho Hồ Chí Minh huấn luyện một Trung đội có vũ khí đầu tiên của lực lượng Cộng Sản Viêt Nam. Trung đội này được giao cho Võ Nguyên Giáp chỉ huy. (1) Tên gọi đầu tiên của lực lượng quân sự này là Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Ngày đầu tiên thành lập là ngày 11 tháng 12 năm 1944. Số lượng bộ đội trong trung đội đầu tiên này là 31 bộ đội trai và 3 bộ đội gái, được OSS của Mỹ tặng cho 2 khẩu súng lục, 17 khẩu súng trường, một súng máy hạng nhẹ, và 14 khẩu súng nạp đạn bằng cách bẻ đôi. (2) Qua sự viện trợ súng đạn này, và tin tưởng rằng người Mỹ có thể giúp mình làm nên sự nghiệp, Hồ Chí Minh đã xin được làm đồng minh với Mỹ, thời gian đó, Tổng Thống Mỹ là Franklin D. Roosevelt, tuy nhiên, khi Mỹ nghiên cứu thấy Viêt Minh chỉ lợi dụng và sẵn sàng làm phản, nên Roosevelt chấm dứt sự yểm trợ này.
b-Mỹ yểm trợ Pháp tại Việt Nam: Khi cuộc chiến Điện Biên Phủ bùng nổ, Pháp đã tìm cách vận động với Mỹ xin yểm trợ máy bay, và được Mỹ giúp 24 máy bay C-119, với phi công là CIA của Mỹ. Về tài chánh, Mỹ đã tăng viện trợ cho Pháp từ 160 triệu đôla đến 3 tỷ đô la vào thời điểm mà Pháp thua trận Điện Biên Phủ. (3) Mục đích của Mỹ khi đó là muốn dùng Pháp để cầm chân Cộng Sản tại Việt Nam nhưng không ngờ Pháp đánh trận quá dở, mà phe Cộng Sản gồm Liên Sô và Trung Cộng lại cương quyết muốn chiếm bán đảo Đông Dương nên buộc Việt Minh phải đánh hết mình, lấy thân người làm cầu cho bộ đội xông lên, kẻ nào lui là cả gia đình bị buộc tội chết. Vì thế, Pháp thất thủ. Mỹ rút hết máy bay về nước, bỏ mặc cho Pháp đầu hàng. Hiệp định Geneve 1954 ra đời với sự thờ ơ của Mỹ.
2. Giai đoạn 1954 đến 1975
a-Mỹ viện trợ miền Nam: Nhận thấy đây là cơ hội để có thể thế chân người Pháp, có một miền đất do người Mỹ bảo hộ, cũng như cần miền Nam Việt Nam làm tiền đồn chống Cộng Sản theo chủ thuyết Domino do Eishenhower đề ra, Hoa Kỳ đã tổ chức Operation Passage To Freedom bằng nhiều tầu chiến, máy bay để đưa người miền Bắc di cư vào Nam. Mỹ đã yểm trợ miền Nam lập ra Tổng Hội Di Cư để giúp dân di cư miền Bắc định cư ở miền Nam. Tiền và trang cụ của Mỹ dồi dào đổ vào yểm trợ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm để ông ổn định miền Nam lúc đó đang ở trong cái thế Sứ Quân, do nhiều phe nhóm, đảng cướp chiếm giữ Thành Phố Saigon và các đô thị quan trọng.
Ngày 1 tháng 11 năm 1955, Mỹ chính thức yểm trợ quân sự cho miền Nam bằng cách gửi sang Nhóm Cố Vấn Quân Sự (American Advisor Group) để giúp huấn luyện quân đội Miền Nam lúc đó mới được chuyển từ quân đội Pháp sang, các tướng lãnh hồi đó toàn là các sĩ quan được Pháp huấn luyện, còn mang tư tưởng Thực Dân Tây. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, sau trở thành Tổng Thống đầu tiên do dân bầu, miền Nam đã dần dần ổn định. Các đảng cướp phải buông súng bỏ chạy, các Sứ Quân đều trở thành các sĩ quan cao cấp hoặc Tướng lãnh của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, nếu không muốn trở thành chính trị gia đối lập.
b-Mỹ muốn dùng quân Mỹ trực tiếp đánh cộng sản: Tháng 5 năm 1961, Kennedy, Tổng Thống thuộc đảng Dân Chủ lại gửi sang miền Nam Việt Nam thêm 400 cố vấn Mỹ nữa, và với đề nghị là Tổng Thống họ Ngô cho quân đội Mỹ chính thức sang Viêt Nam để bảo vệ an ninh cho vùng. Tổng Thống Ngô đình Diệm, một vị Tổng Thống Vì Dân, Vì Nước cương quyết từ chối lời đề nghị này và cho rằng “Nếu quân Mỹ đổ bộ vào Việt Nam thì Việt Nam sẽ mất chính nghĩa, và nếu mất chính nghĩa thì sẽ thua Cộng Sản!” Nhưng Kennedy vẫn cương quyết đòi đổ quân vào miền Nam Việt Nam.
Tháng 10 năm 1961, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara đề nghị sẽ gửi 200,000 quân Mỹ vào Việt Nam. Tổng Thống Diệm vẫn từ chối. Từ đó, Mỹ tìm mọi cách để lật đổ Tổng Thống Diệm. Vài cuộc đảo chính nhỏ lẻ xảy ra, dưới sự chỉ đạo của Mỹ. Tháng 12 năm 1962, hai phi công bỏ bom Dinh Độc Lập. Tháng 9 năm 1963, trong một cuộc phỏng vấn với Walter Cronkite, Kennedy tố cáo Tổng Thống Diệm đàn áp Phật Giáo, trong khi đó âm thầm tung tiền mua chuộc một số tướng lãnh phản bội để giết Tổng Thống Diệm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, cuộc đảo chánh đẫm máu đã diễn ra dưới sự đạo diễn của Cabot Lodge, đại sứ của Kennedy, kết cuộc thảm khốc là Tổng Thống Diệm và Cố Vấn Nhu bị giết tàn nhẫn trong xe tăng.
Ông Ngô Đình Cẩn, em út, sau đó bị xử bắn. Không còn ai cản trở, Kennedy gửi ngay 16,000 quân sang Viêt Nam. Tuy nhiên, Ông Trời có mắt, chỉ 21 ngày sau, Kennedy bị ám sát. Nhiều nguồn tin cho hay là vì Kennedy dự định nhân nhượng với Cộng Sản Nga trong một thỏa hiệp nào đó, khiến dân Dallas ghét ông, và đã cho người bắn Kennedy chết khi đang chuyến công du sang Dallas với mục đích hòa giải với dân Texas là dân chống Cộng cực kỳ. Từ sự việc này, thế giới đã thấy: Một Tổng Thống Mỹ thuộc đảng Dân Chủ, chỉ vì vấp phải sự từ chối của một nguyên thủ Quốc Gia Việt Nam, đã tàn nhẫn cho lệnh sát hại cả gia đình một Tổng Thống Việt Nam.
Các lãnh đạo Mỹ sau đó, đã tìm mọi cách để nhũng loạn chính trường Việt Nam, ủng hộ người này, phế bỏ người kia khiến phe Quân Sự bị thụ động, để mặc cho Cộng sản Bắc Việt tràn vào miền Nam như thác đổ. Từ Du Kích Chiến cấp Đại Đội, cao lắm là Tiểu Đoàn, Cộng Sản đã công khai đánh Công Kiên Chiến, Trận Địa Chiến, tấn công Miền Nam với cấp Sư Đoàn, rồi dần dần tăng cường thành Quân Đoàn hay Binh Đoàn (gồm nhiều Sư Đoàn) với quân số trên 30,000 bộ đội cho một Quân Đoàn. Quân đội miền Nam đang từ Tấn Công trở sang Phòng Thủ thụ động cũng vì mục tiêu lũng đoạn chính trị của người Mỹ. Tổng Thống Mỹ (Dân Chủ) coi Việt Nam như là đầy tớ của họ, khi không xài được, thì giết quách.
c-Mỹ muốn tiếp tục chiến tranh: Từ 1965 đến 1966, Tổng Thống Lyndon B. Johnson (Dân Chủ) đã đưa sang Việt Nam 325,000 quân Mỹ. Đến 1968, số quân Mỹ đã có mặt ở Việt Nam là 536,100 người. Vì sự có mặt quá đông đảo quân Mỹ tại miền Nam gây ra nhiều xáo trộn về văn hóa, văn học và xã hội, khiến cho Cộng Sản Việt Nam có cớ tăng cường vận động quốc tế giúp miền Bắc “Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào.” Dân nông thôn, vì không có phương tiện theo dõi báo chí, nên đa số căm thù Mỹ-Ngụy và ngả theo Mặt Trận Giải Phóng.
Đến tháng 3, 1968, một biến cố hãi hùng xảy ra đẩy dân quê miền Nam biến thành du kích: Thảm sát Mỹ Lai làm Việt Cộng có cớ tấn công nhiều hơn và được sự hưởng ứng của những dân quê xa thành phố. Từ đó, chiến tranh bùng phát mạnh hơn và có chiều hướng thuận cho việc tuyển mộ thêm du kích Cộng sản. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa vừa phải chiến đấu bằng súng đạn, vừa phải chiến đấu trên phương diện tâm lý chiến, nên vất vả hơn nhiều.
d-Nixon âm mưu bán đứng miền Nam cho cộng sản: Năm 1968, Nixon, thuộc đảng Cộng Hòa, ngay khi còn là Ứng cử viên Tổng Thống đã âm mưu giục miền Nam đừng tham gia Hòa Đàm Paris, vì nếu cuộc chiến chấm dứt trong hòa bình, thì Nixon không có thế mạnh trong chính trường quốc tế.(4) Nhưng sau khi lên ngôi, Nixon lại trở mặt, thúc giục miền Nam ngồi vào bàn hội nghị với Cộng Sản. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận những điều kiện do Mỹ đưa ra, vì chỉ có lợi cho Cộng Sản mà thiệt hại cho miền Nam cho nên Hòa Đàm Paris không tiến triển.
Năm 1971, Nixon, kẻ nham hiểm, đã cử Kissinger lén lút liên lạc với Châu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Hoa Cộng Sản, để tìm cách giao hảo giữa Washington và Cộng Sản Tầu.(5) Không biết hai bên hứa hẹn gì với nhau, nhưng sau khi về Mỹ, Nixon luôn thúc giục Tổng Thống Thiệu ký vào bản Hiệp Định do Mỹ soạn thảo. Tổng Thống Thiệu vẫn cương quyết từ chối trong khi đó Bắc Việt cũng đòi hỏi nhiều điều bất hợp lý, và bỏ hội nghị, không tái tục thương thảo.
Khi thấy đầu năm 1973 đã gần đến mà Bắc Việt vẫn khăng khăng không chịu ngồi vào bàn hội nghị, Nixon đã cho lệnh thực hiện chiến dịch bỏ bom Bắc Việt tên gọi là Operation Linebacker II (6) để buộc Bắc Việt trở lại bàn thương thảo. Chiến dịch này kéo dài từ 18 đến 29 tháng 12 năm 1972, khiến cho miền Bắc tan hoang. Điều chứng tỏ là Nixon chỉ muốn rút chạy khỏi Việt Nam, là đến ngày thứ 12, Bắc Việt đã bắn tiếng chuẩn bị đầu hàng vô điều kiện, thì Nixon lại cho lệnh ngưng oanh tạc, nghĩa là dùng chính sách “cây gậy và củ cà rốt” để dọa Bắc Việt mà thôi. Nếu Nixon thật sự muốn thắng Cộng Sản, thì chỉ cần oanh tạc thêm 2 ngày nữa, là Bắc Việt giơ cả hai chân lên đầu hàng. Nhưng Nixon không làm thế, vì nếu tiêu diệt Bắc Việt là đụng chạm đến Trung Cộng!
Tình thế bó buộc, Bắc Việt lê tấm thân thương tật trở lại Paris, nhưng Tổng Thống Thiệu vẫn không chấp nhận áp lực của Mỹ. Ông yêu cầu phải giải quyết nhiều việc như khu Phi Quân Sự phải được coi là bất di bất dịch cũng như đòi quân Bắc Việt phải rút trở về Bắc. Nhưng Nixon không muốn thế, cho nên gửi công hàm trực tiếp cho Tổng Thống Thiệu: “Vì thế, tôi quyết định, không thể thay đổi, là tiếp tục để ký hiệp định ngày 23 tháng 1 năm 1973… Tôi sẽ làm điều này và nếu cần, tôi làm một mình!” (I have therefore irrevocably decided to proceed to initial the agreement on 23 January 1973… I will do so, if necessary, alone).(6) Tổng Thống VNCH lúc đó không còn chọn lựa nào khác là bắt buộc phải ký hiệp định Da Beo này, cho quân Bắc Việt cùng với súng đạn tiếp tục ở lại miền Nam cùng với du kích, trong khi quân Mỹ rút hết về nước! Kết quả ra sao, cả thế giới đều biết: Việt Nam Cộng Hòa bị Mỹ phản bội một cách công khai. Nixon đã bức tử quốc gia này! Sau đó, quân đội miền Nam chỉ còn cách chiến đấu tuyệt vọng, với súng không có đạn, với máy bay và chiến xa không có xăng, quân trang, quân dụng, quân cụ thiếu thốn, hư hỏng không được thay… Điều phải đến đã đến: Chỉ sau 2 năm cầm cự, ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội Việt Nam Cộng Hòa, một trong các đội quân thiện chiến nhất trên thế giới phải buông súng, đầu hàng. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu sự biến mất của một dân tộc anh hùng trước chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng là ngày ghi nhớ sự phản bội đồng minh trắng trợn, đạo diễn bởi một ông Tổng Thống thuộc đảng Cộng Hòa, người đầu tiên đã mở đường cho việc giao thương với Cộng Sản sau 25 nước Mỹ đoạn giao với chế độ tàn ác, vô nhân này.
Như thế, thử hỏi, có đảng nào của Hoa Kỳ quan tâm đến Việt Nam như một người Bạn thật sự không? Bây giờ người Việt lại ngửa cổ trông chờ một ông Tổng Thống thuộc đảng Cộng Hòa Mỹ sẽ đánh Cộng Sản Tầu và giúp Việt Nam được Tự do, Dân chủ thì một là không biết học lịch sử, hai là mơ ngủ giữa ban ngày.
Chu Tat Tien