HÀ NỘI (NV) .- Xét trên bình diện toàn cầu, Việt Nam xếp thứ 64/162, xét riêng khu vực châu Á, Việt Nam xếp thứ 9, còn xếp theo tổng số nô lệ, Việt Nam đứng thứ 15 trên thế giới.
Một thanh niên ở làng Plei Jơ Drợp, xã Ia Chim, thị trấn Kin Tum, tỉnh Kon Tum, mới được gia đình chuộc về đang kể với báo giới chuyện bị gạt, bị biến thành nô lệ tại Lâm Đồng. (Hình: Thanh Niên) |
Đó là kết quả khảo sát – phân tích xếp hạng của một tổ chức quốc tế có tên là Walk Free. Walk Free chuyên tranh đấu cho nhân quyền, có trụ sở đặt tại Úc. Những số liệu vừa dẫn được Walk Free nêu trong báo cáo mang tên “Chỉ số tình trạng Nô lệ 2013”, sau cuộc khảo sát – phân tích về tình trạng này tại 162 quốc gia.
Theo Walk Free, toàn thế giới hiện có khoảng 30 triệu người bị cưỡng ép lao động và bị cầm giữ, đối xử như nô lệ. Trong báo cáo “Chỉ số tình trạng Nô lệ 2013”, Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Nigeria, Ethiopia là năm quốc gia có nhiều nô lệ nhất. Còn nếu tính theo tỷ lệ dân số thì Mauritania là quốc gia dẫn đầu với 4% dân số bị biến thành nô lệ.
Con số nô lệ tại Việt Nam được Walk Free ước đoán nằm trong khoảng từ 240 ngàn đến 260 ngàn. Walk Free nhận định, tình trạng người Việt bị cưỡng ép lao động phổ biến cả ở bên ngoài lẫn bên trong Việt Nam.
Báo cáo “Chỉ số tình trạng Nô lệ 2013” của Walk Free được nhiều nhân vật có uy tín trên thế giới ủng hộ, trong số này có bà Hillary Clinton, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ và ông Tony Blair, cựu thủ tướng Anh. Bà Clinton hối thúc các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới coi báo cáo là lời kêu gọi hành động và nên tập trung vào việc đáp trả tội ác này.
Trước đây, chuyện lừa gạt, cưỡng ép làm việc và dùng nhiều biện pháp khác nhau để cầm giữ người lao động, cột chặt họ với giới chủ chỉ xảy ra với những người Việt đi làm thuê ở nước ngoài và những người Việt là nạn nhân của nạn buôn người. Nay, điều đó đang xảy ra trên khắp Việt Nam.
Cách nay hai tuần, nhiều tờ báo ở Việt Nam đưa tin, hàng trăm người thiểu số, cư ngụ tại nhiều khu vực khác nhau ở Tây Nguyên đã bị gạt, bị buộc làm việc như nô lệ và cuối cùng, thân nhân phải trả tiền chuộc họ về.
Điểm đáng chú ý là Công an tỉnh Kon Tum chỉ cử người đi “xác minh” chuyện 96 thanh niên nam nữ người thiểu số của hai xã Ia Chim và Đăk Năng, thuộc thành phố Kon Tum, được đưa đến làm việc ở huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng nhưng không có lương và bị chủ cầm giữ. Sau khi báo giới và công chúng bày tỏ sự ái ngại cho thân phận của người thiểu số tại Việt Nam và căm phẫn trước lối cư xử tàn tệ của những kẻ bất lương, đến cuối tuần rồi, chỉ mới có 6 người được phóng thích nhờ gia đình xoay đủ tiền để chuộc họ về.
Tình trạng tương tự cũng đã xảy ra với 121 người dân tộc Bh’noong ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Năm 2010, những người này được “tuyển dụng” làm công nhân trồng rừng cho Xí nghiệp Nguyên liệu giấy Đắk Lắk. Tất cả đều không được trả đồng nào sau sáu tháng làm việc quần quật như nô lệ. Chưa kể do ăn ở kham khổ, lao lực, một người đã thiệt mạng.
Trước sự phẫn nộ của công chúng, nhà cầm quyền mới chịu can thiệp. Mãi tới đầu tuần này, gần ba năm sau khi bị lừa làm việc không lương suốt nửa năm, 120 người dân tộc Bh’noong ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam mới được Xí nghiệp nguyên liệu giấy Đắk Lắk “hứa trả lương”. Gia đình người thiệt mạng thì được hứa sẽ được hỗ trợ 20 triệu đồng.
Walk Free không phải là nơi đầu tiên lên tiếng cảnh báo về tình trạng nô lệ tại Việt Nam. Hồi tháng năm vừa qua, một tờ báo điện tử có tên là American Thinker, đăng một bài viết của Michael Benge, lên án chế độ Hà Nội chủ trương và dung dưỡng tệ nạn buôn người.
Trong bài viết có tựa là “Communist Vietnam – Human Trafficker Extraordinaire”, ông Benge cho biết, trong khi Bộ Công an Việt Nam loan báo, từ 2004 đến 2009, có 2,935 người Việt Nam trở thành nạn nhân của nạn buôn người thì các tổ chức quốc tế cho rằng, số người Việt là nạn nhân của tệ nạn buôn người từ năm 1990 đến nay phải trên 400,000 người. Ông Benge tin rằng, số liệu của các tổ chức quốc tế dù lớn nhưng chưa đầy đủ vì chưa tính tới hàng chục ngàn vụ lạm dụng con người.
Theo ông Benge, ngoài hoạt động buôn người của các công ty xuất cảng lao động, do chủ trương và sự dung dưỡng tệ nạn buôn người của chính nhà cầm quyền Hà Nội, Việt Nam đã trở thành quốc gia cung cấp nhân lực cho các hoạt động bóc lột tình dục đối với phụ nữ và trẻ em.
Sang tháng 8, tới lượt hãng tin BBC đăng một phóng sự điều tra của Marianne Brown về “nô lệ trẻ em” ở Việt Nam. Thông qua Qũy Trẻ em Blue Dragon, bà Brown đã tiếp xúc với nhiều đứa trẻ được Blue Dragon giải cứu. Từ 2005, Blue Dragon đã giải cứu 205 đứa trẻ, đa số là con em người thiểu số sống tại miền Bắc và miền Trung Việt Nam, bị dụ dỗ vào Sài Gòn rồi bị cầm giữ, bị buộc phải làm việc trong các xưởng may, bị ép ăn xin, thậm chí bán dâm.
Một luật sư là thành viên sáng lập Blue Dragon kể với bà Brown rằng, 25% số trẻ em mà Blue Dragon giải cứu hồi năm ngoái là những đứa trẻ bị ép phải làm việc trong các xưởng may ở Sài Gòn. Những “xưởng may” này thường rất chật hẹp và vừa là nơi làm việc, vừa là nơi ăn ở của hàng chục đứa trẻ. Chủ xưởng chỉ cho các em vào nhà tắm 8 phút một ngày. Tám phút đó dành cho cả việc đánh răng, tắm rửa và đi vệ sinh.
Nói cách khác, sau khi trở thành nổi tiếng vì là một trong những cái nôi của tệ buôn người, nổi riếng vì phụ nữ và trẻ em Việt Nam đã bị biến thành hàng hóa để bán đi Trung Quốc, Đông Nam Á, châu Âu, Việt Nam tiếp tục nổi tiếng vì người Việt bị biến thành hàng hóa để mua bán ngay tại Việt Nam.
Ông Florian Forster, Trưởng Văn phòng Di trú Quốc tế (IOM) tại Việt Nam, nói với bà Brown: Buôn người xuyên biên giới đã được công nhận từ lâu nhưng buôn người trong nước mới chỉ được chính thức công nhận kể từ năm 2011.
Bà Vũ Thị Thu Phương, một thành viên trong Dự án liên kết các tổ chức Liên Hiệp Quốc để phòng chống buôn người (UNIAP) xác nhận: Hầu hết các vụ buôn lao động trong nước không bị coi là tội phạm mà chỉ bị phạt hành chính. (G.Đ)