Cuộc đời kỳ lạ của nhà tiên tri mù nổi tiếng Vanga

Cô bé Vanga 12 tuổi cũng phải làm việc nhà. Cô cưỡi chú lừa con vào làng chở sữa về trong hai bao da.

tiên tri, nhà tiên tri nổi tiếng, Vanga
Vanga thời trẻ

Một lần vào mùa hè, trên đường trở về làng, Vanga cùng với hai em gái họ rẽ vào một suối nước nằm ở ngoài cánh đồng, cách đường cái không xa. Không ai biết điều gì đã diễn ra ở đấy.

Cháu họ của Vanga, Krasimira Stoyanova, kể lại sự việc này như sau:

“Bỗng nhiên một trận cuồng phong ập đến. Bầu trời tối sầm, gió thổi điên loạn quật gãy các cành cây, những cây non bật gốc cùng với đất cát bị gió ném ra xa trên cánh đồng. Một cột bụi khổng lồ dựng lên cao chót vót tận bầu trời. Bụi, đất, cành cây và lá hòa lẫn với nhau tạo thành một cơn lốc khủng khiếp quật hai chị em đang lặng người đi vì khiếp sợ ngã xuống cách nguồn nước không xa, còn Vanga bị cuốn về phía cánh đồng. Không biết cơn cuồng phong kéo dài bao lâu? Không ai còn nhớ điều đó. Một lúc sau, người ta tìm thấy Vanga nằm bất tỉnh, bị bụi, đá và cành cây vùi lấp trên cánh đồng. Cô dường như mất trí vì sợ hãi, hai con mắt đau đớn khủng khiếp vì bị cát bụi lấp đầy không làm sao mở ra được”

Khi Vanga được đưa về nhà, mọi người tìm mọi cách chăm sóc, chữa trị cho cô, nhưng vô hiệu. Ông bố hết sức tuyệt vọng. Ông tự trách mình đã chuyển gia đình về Novo-Selo. Ông cho rằng, nếu ở quê cũ có thể đã không xảy ra tai họa như vậy. Cuộc sống ở nhà người em trai không những không trở nên dễ chịu đối với con gái và gia đình mà còn gây ra nhiều khó khăn mới. Ông Pande quyết định trở về Strumitsa, và tìm cách chữa bệnh cho con.

Tin về vụ tai nạn nhanh chóng lan ra khắp cả vùng. Những người quen lẫn không quen biết đều tìm cách giúp đỡ trong chừng mực có thể: họ giới thiệu với ông Pande các loại thảo dược và thuốc bôi hiệu nghiệm đã từng gặp trong cuộc sống của mình. Nhưng trường hợp tương tự như đã xảy ra với Vanga thì cả họ lẫn những người già cũng chưa bao giờ được chứng kiến, nói gì đến chuyện giúp đỡ…

Ông Pande đến gặp bác sĩ. Ông ta nói rằng tình hình rất nghiêm trọng, mắt Vanga bị viêm nặng và cần phải mổ gấp để phục hồi thị lực.

Ông bố đã quyên góp được khá nhiều tiền để điều trị cho con. Ở Skopla, Vanga được làm phẫu thuật, nhưng không có kết quả. Chiếu cố tình trạng bệnh tật của cô bé và hoàn cảnh kinh tế khó khăn của gia đình, Vanga được làm phẫu thuật thêm một lần miễn phí. Nhưng cũng vô hiệu.

Các thầy thuốc khuyên ông Pande đưa con gái đi làm phẫu thuật một lần nữa ở Beograd.

Lại le lói tia hy vọng, và ông bố đồng ý. Ngày làm phẫu thuật được ấn định, nhưng ông Pande mới chỉ vay được một số tiền ít ỏi, 5000 dinar.

Ông Pande rơi vào tuyệt vọng vì không biết làm thế nào kiếm đủ số tiền. Bản thân ông gần như là kẻ ăn mày. Không thể vay được một số tiền lớn như vậy, những người hàng xóm cũng không có.

Hoàn cảnh trở nên hết sức bi đát. Bỗng lúc đó ông Pande sực nhớ rằng trước đây bà ngoại của Vanga, mẹ vợ đầu của ông, hứa cho cháu ngoại một mảnh đất. Và mặc dù sau khi mẹ của Vanga qua đời, quan hệ giữa bà mẹ vợ và con rể trở nên căng thẳng, ông vẫn đến nhờ bà giúp đỡ. Ông Pande xin bà ngay lập tức bán mảnh đất lấy tiền cho cháu làm phẫu thuật. Nhưng ngay cả nỗi bất hạnh cũng không làm lung lay bức tường ghẻ lạnh đã mọc lên giữa họ, và bà mẹ vợ dứt khoát từ chối giúp đỡ.

Trong khi đó, thời điểm làm phẫu thuật đã cận kề. Ông Pande bán tất cả những gì còn lại: chiếc máy khâu – kỷ vật về người vợ đầu tiên, và cả con cừu độc nhất. Ngoài ra trong nhà không có gì nữa. Cộng thêm một ít tiền vay mượn. Nhưng tất cả những gì ông nhặt nhạnh được một cách khó khăn như vậy cũng may ra mới trang trải được một nửa số tiền cần thiết.

Được biết một người hàng xóm giàu có chuẩn bị đến Beograd thăm con trai, Pande quyết định nhờ ông ta đưa Vanga đi làm phẫu thuật, bởi vì ông không đủ tiền tự mình đưa con gái đi. Người hàng xóm đồng ý giúp đỡ ông Pande khốn khổ. Họ đến bệnh viện một ngày trước khi Vanga làm phẫu thuật.

Người hàng xóm gặp bác sĩ và chuyển số tiền của Pande quyên góp được. Bác sĩ nổi giận vì một quý ông đường hoàng, ăn mặc lịch sự như vậy mà lại trả cho ông ta một số tiền công quá ít ỏi. Ông ta cho rằng người bà con giàu có này đã ăn bớt tiền của cô bé nghèo. Không hé răng với người hàng xóm, chiều hôm đó bác sĩ gọi Vanga vào phòng làm việc và nói:

“Này cô bé, sáng mai ta sẽ phẫu thuật cho cháu, nhưng vì bố cháu chỉ mang tới một nửa số tiền, vì vậy ta sẽ làm một “nửa” phẫu thuật. Bao giờ bố cháu nộp đủ tiền, ta sẽ mổ nốt mắt bên kia!”.

Rõ ràng, ông ta nói điều đó trong cơn tức giận.

Sau cuộc phẫu thuật đó, Vanga có thể nhìn được chút ít. Bác sĩ nói rằng để tiếp tục cải thiện sức khỏe cô bé cần ăn uống đầy đủ, yên tĩnh và vệ sinh sạch sẽ. Nhưng gia đình vẫn nghèo khổ như xưa. Tất nhiên, họ không có điều kiện cần thiết để phục hồi sức khỏe của Vanga.

Năm 1924, gia đình lại có thêm người, và bây giờ họ đã có 5 nhân khẩu. Cậu bé mới sinh được đặt tên là Toms. Để nuôi sống gia đinh ông bố đã phải làm việc cật lực. Ông buộc phải đi cày thuê cuốc mướn ở các làng. Vợ ông làm ruộng, còn Vanga là chị cả phải làm nội trợ và trông nom các em.

Hoàn cảnh đó vốn rất khó khăn ngay cả đối với người khỏe mạnh, còn đối với một cô bé yếu ớt lại gần như mù lòa thì quả là hết sức gay go. Tình hình càng ngày càng tệ – mắt Vanga lại mờ đi, và cô bé hoàn toàn bị mù. Bây giờ là vĩnh viễn.

Đối với Vanga và tất cả những người ruột thịt của cô đây là một thảm kịch thực sự. Vốn là một cô bé đã can đảm chịu đựng bao nhiêu nỗi thống khổ với hy vọng hồi phục sức khỏe, Vanga bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng. Bao nhiêu đêm liền cô đã khóc và cầu nguyện Thượng đế giúp đỡ, hy vọng vào điều kỳ diệu. Nhưng tất cả vẫn không có gì thay đổi.

Biết bao nhiêu ngày tháng đằng đẵng không thể chịu nổi nối nhau qua. Vanga hoàn toàn bất lực và càng thêm đau khổ vì không những không thể giúp đỡ gì cho bố mẹ mà còn trở thành gánh nặng. Còn họ thì hoàn toàn kiệt sức.

Tưởng như không thể tìm thấy lối thoát nào nữa khỏi tình thế khó khăn. Nhưng một lần, những người hàng xóm mách với họ rằng ở thành phố Zemun ( Serbia) có Trường dành cho người mù, nơi học sinh được chăm sóc chu đáo. Nếu Vanga được nhận vào đó thì sẽ rất tốt. Ông Pande bắt đầu tìm cách xoay xở.

Năm 1925, Trường người mù đồng ý tiếp nhận Vanga. Một bước ngoặt trong cuộc đời đã diễn ra với cô bé. Vanga đã tròn 15 tuổi. Điều gì sẽ chờ đợi cô ở cái thành phố xa lạ giữa những con người xa lạ? Cô sẽ phải sống xa gia đình và những người thân bao lâu? Mỗi lần nghĩ về điều đó và về cuộc chia tay với gia đình, nước mắt cô bé tự nhiên trào ra.

Cuộc chia tay diễn ra vào một buổi sáng mùa xuân đẹp trời. Vanga bé nhỏ, gầy gò trở nên hết sức bối rối. Cô cố mường tượng trong ký ức tất cả những hình ảnh thân thuộc. Giờ đây cô cảm nhận thế giới bằng thính giác. Trước đây cô không ngờ rằng thế giới âm thanh phong phú đến như vậy.

Một làn gió nhẹ luồn qua bờ giậu, khẽ lay những khóm thiên trúc quỳ và đinh tử hương. Những chú mèo chạy trên vạt cỏ non, mặt trời tỏa ánh nắng xuống ngọn cây mận, một tia nắng vờn trên má Vanga. Những cảm giác đó in đậm trong ý thức của Vanga, và cô bé nhớ mãi suốt cuộc đời.

(Theo SKĐS)

Thời thơ ấu đặc biệt của nhà tiên tri nổi tiếng Vanga

Vanga là nhà tiên tri, nhà nghiên cứu thảo dược nổi tiếng của Bulgaria. Bà sinh ngày 31/1/1911 và mất ngày 11/8/1996. Tên khai sinh của bà là Vangelia Pandeva Dimitrova, sau khi kết hôn đổi thành Vangelia Gushcherova.

Bà bị mù từ năm 12 tuổi và sống gần trọn cuộc đời ở vùng Rupite, thuộc dãy núi Kozhuh, Bulgaria. Sinh thời, rất nhiều người từ khắp nơi trên thế giới đã đến gặp bà để chữa bệnh hoặc xin lời khuyên về những vướng mắc trong cuộc sống, và tiên đoán tương lai.

nhà tiên tri, nhà tiên tri nổi tiếng Vanga

Thời trẻ, ông Pande Surchev tham gia đội nghĩa quân vũ trang chiến đấu chống lại ách đô hộ của đế quốc Osman. Ông bị người Thổ Nhĩ Kỳ bắt và kết án chung thân. Trong nhà tù “Edi kule”, ông bị tra tấn dã man và tưởng như mất hy vọng được cứu thoát, nhưng năm 1908, những người Thổ trẻ tuyên bố Thổ Nhĩ Kỳ là nước quân chủ lập hiến, và chính phủ mới đã giải phóng các tù nhân.

Pande trở về làng quê Novo-Selo của mình, nhưng ở đấy không còn ai thân thích. Bố mẹ đã qua đời mà không kịp gặp con trai, còn người em trai bỏ đi đâu đấy và mất tích. Ít lâu sau, được tin ở thành phố Strumitsa, công xã phân phát những ngôi nhà bị người Thổ bỏ lại cho những người di cư, Pande lên đường tới đó tìm kiếm hạnh phúc.

Ông được phân một ngôi nhà cũ nằm ở ngoại ô thành phố.

Khu phố có tên là “Svetiko” nằm cạnh nhà thờ Mười lăm vị Thánh Tử vì đạo.Những ngôi nhà ở đây được xây bằng gạch, giống hệt nhau, trông rất cũ kỹ. “Svetiko” giống một ngôi làng bị bỏ hoang hơn là vùng ngoại ô thành phố. Những con đường hẹp, lầy lội và bẩn thỉu, vào ban đêm, không nhìn thấy gì. Những khoảng sân nhỏ được bao quanh bởi bờ giậu bằng cây mận gai. Trong sân, lũ súc vật nhởn nhơ đi lại, ban đêm chúng bị nhốt ở tầng dưới các ngôi nhà hoặc ngay trong các phòng ở. Tất cả cư dân ở đều mới chuyển đến thành phố từ các làng lân cận để kiếm việc làm. Họ chủ yếu là nông dân, thợ thủ công hay tiểu thương.

Nổi bật trong khu phố là một vài gia đình người Zigan ồn ào và một gia đình người Thổ tên là Gyul-baba không muốn hồi hương. Người ta nói đùa rằng ông ta không muốn đi vì vườn hồng không cho phép. Thực ra, trong khu vườn của ông ta, hoa hồng nở từ đầu xuân đến cuối thu, tỏa hương thơm ngát khắp cả vùng.

Pande bắt đầu thích nghi với nơi ở mới. Cơ thể trẻ trung nhanh chóng hồi phục sau những năm tháng lao tù và hoạn nạn. Anh mua một miếng đất nhỏ và chăm chỉ làm việc. Anh là một chàng trai hiền lành, yêu lao động, sống chan hòa với những người láng giềng của mình, cũng là dân di cư như anh.

Một thời gian, Pande sống độc thân. Nhưng sau đó anh phải lòng một cô gái dịu dàng và nhanh nhẹn tên là Paraskeva. Nàng có thân hình mảnh dẻ, nhưng nhanh nhẹn và dễ thương. Pande ngỏ lời cầu hôn và được nàng ưng thuận. Chẳng bao lâu họ bắt đầu cuộc sống gia đình. Người vợ trẻ tính tình vui vẻ, sống ngăn nắp, sạch sẽ và biết vun vén cho tổ ấm gia đình. Nàng giúp chồng làm ruộng và thường xuyên hỗ trợ anh.

Ngày 31/1/1911, con gái đầu lòng của họ ra đời.

Cô bé đẻ non lúc mới được 7 tháng và rất yếu, các ngón tay và ngón chân dính liền với nhau, và không cất tiếng khóc chào đời. Ngay cả các cụ già từng trải cũng không tin rằng cô bé có thể sống sót.Người ta quấn đứa hài nhi vào mảnh vải len, rồi đặt nằm cạnh bếp lò.

Một thời gian sau, ấy là vào dịp tháng Ba, đứa bé bỗng nhiên khóc thét lên giữa đêm khuya. Những bà cụ thông thái giải thích cho người mẹ đang lo lắng rằng cô bé thực sự ra đời vào chính thời điểm đó.

Ở Strumitsa, thông thường người ta chưa đặt tên cho đứa trẻ nếu không tin chắc rằng nó sống sót. Cũng theo phong tục cổ, bố mẹ hoặc những người thân không được đặt tên cho đứa trẻ. Một người nào đó trong gia đình phải đi ra đường và nhờ người gặp đầu tiên đặt tên cho nó.

Và vào buổi sáng sau khi cô bé bắt đầu cất tiếng khóc, bà ngoại của cô ra đường và nhờ một người phụ nữ gặp đầu tiên đặt tên cho đứa trẻ sơ sinh. Bà ta đặt là “Andromaha”. Nhưng bà ngoại không thích cái tên ấy, bà đến gặp một phụ nữ qua đường khác; bà này đặt là “Vangelia”. Cái tên Hy Lạp này có nghĩa là “người mang đến tin lành”. Và mặc dù đây là cái tên “ngoại lai”, nhưng ở Strumitsa, nó rất phổ biến, và bà ngoại đồng ý đặt cho cháu bé.

Trong gia đình, mọi người gọi cô bé là Vanga. Cô bé ngày càng cứng cáp và chẳng bao lâu, trông chẳng khác gì các bạn cùng trang lứa. Năm Vangelia lên ba tuổi, mẹ qua đời trong lần sinh con thứ hai. Nỗi bất hạnh không dừng lại ở đó. Thế chiến thứ nhất bùng nổ, và năm 1915, bố cô được động viên vào quân đội Bungaria.

Một người đàn bà Thổ rất hiền lành và nhân hậu tên là Asanitsa, sống cạnh nhà, đã đưa cô bé về nuôi. Năm tháng nối nhau trôi qua, cuộc sống đầy khó khăn, cực nhọc. Người ta chờ ông bố của Vanga trở về, nhưng đã ba năm trôi qua rồi mà ông vẫn biệt vô âm tín. Mọi người bắt đầu nghĩ rằng ông đã chết?.. Có thể, cô bé đã mồ côi cả cha lẫn mẹ?

Tuy nhiên, mọi sự hoài nghi hóa ra vô ích. Chẳng bao lâu ông bố sống sót trở về và vẫn khỏe mạnh. Nhưng không chỉ con gái mà cả những người hàng xóm cũng khó khăn lắm mới nhận ra ông vì ông quá gầy gò và hốc hác.

Vanga và bố vẫn tiếp tục sống trong ngôi nhà cũ. Nhưng ông Pande sống độc thân không dễ dàng. Còn Vanga – cô bé có mái tóc màu hạt dẻ và cặp mắt xanh da trời – đã tròn 7 tuổi. Vốn hiếu động và thất thường, cô cần tình cảm và sự chăm sóc của một người mẹ. Ông bố hết sức lo lắng cho tương lai của Vanga.

Mặc dù chiến tranh đã kết thúc, nhưng vẫn như xưa, những người dân sợ hãi và cảm thấy bất an. Chính quyền mới được thiết lập ở Strumitsa, nó chuyển về tay của một thị trưởng người Serbia. Bây giờ người dân thành phố phải nói và viết bằng tiếng Serbia. Các quan chức địa phương áp dụng những luật lệ hà khắc và bao điều cấm kỵ khác nhau. Nhiều người dân khó khăn lắm mới hiểu được những mệnh lệnh phức tạp, và lo lắng nhìn về tương lai. Một số người bỏ quê hương xứ sở. Cả ông Pande cũng nghĩ rằng tốt nhất là nên ra đi, nhưng vì con gái nên không quyết định làm điều đó.

Nhưng bọn trẻ con thì có cuộc sống riêng của chúng. Trong nhà ông Pande, lúc nào cũng vang lên tiếng trẻ nô đùa. Lũ trẻ con trong vùng chết mê chết mệt vì những trò chơi Vanga bày ra nhờ tính tình sôi nổi và vui nhộn của mình. Trò chơi yêu thích của cô bé có tên là “ở bệnh viện”. Vanga đóng vai “thầy thuốc”. “Bệnh nhân” ngồi chờ trong sân, còn thuốc là các thứ cỏ mọc nhan nhản khắp xung quanh giúp chữa khỏi các loại “bệnh” khác nhau.

Giống như mẹ mình, cô bé rất thích sạch sẽ và ngăn nắp. Cô cũng yêu cầu các bạn quét sân sau khi “chữa bệnh”. Quét xong, Vanga bảo tất cả ngồi quanh mình trên một tấm chiếu gai. Lũ trẻ sốt ruột chờ đợi giây phút này. Còn Vanga bắt đầu kể cho chúng vô số chuyện do cô tự bịa ra. Cả bọn nín thở lắng nghe.

Một mình ông Pande rất vất vả trong việc quản lý kinh tế và giáo dục con gái. Ông thường nghĩ về việc đi bước nữa. Không thể nói ông là một đám béo bở: đã nghèo, góa vợ lại còn phải nuôi con nhỏ. Nhưng may mắn đã mỉm cười với ông. Ít lâu sau, một trong những cô gái xinh đẹp nhất thành phố, Tanka Georgievna, đã trở thành vợ ông. Một sự kiện không may trong gia đình Tanka đã trở thành cơ hội đối với ông.

Tanka chuẩn bị cưới một sĩ quan Bungaria, nhưng cuộc hôn nhân tan vỡ vì một chỉ thị vô lý của ban lãnh đạo Serbia. Theo đó tất cả phụ nữ ít nhiều có dính líu tới các sĩ quan hay binh sĩ Bungaria phải ngay lập tức cùng gia đình rời khỏi Strumitsa. Để tránh điều ong tiếng ve và bị trục xuất khỏi thành phố, Tanka nhận lời cầu hôn của Pande và lấy ông làm chồng.

Người vợ trẻ trở thành một nữ nội trợ giỏi và người mẹ tận tình, nhưng chồng cô cũng không có lý do gì làm vợ thất vọng, ông là một con người tử tế, chu đáo và cần cù lao động. Mọi chuyện diễn ra không thể nào tốt đẹp hơn. Bầu không khí gia đình bình yên và hòa thuận. Nhờ sự cần cù lao động và kiên nhẫn của ông Pande, công việc gia đình ngày càng tấn tới, diện tích đất của gia đình dần dần mở rộng lên 9 hecta. Vào mùa thu hoạch, khi các thành viên trong gia đình làm không xuể, ông Pande thậm chí phải thuê mướn nhân công. Mọi người tỏ ra kính trọng ông.

Nhưng sự bình yên và hạnh phúc kéo dài không lâu. Những đám mây đen lại bao phủ bầu trời Strumitsa. Ban lãnh đạo mới tìm mọi cách biến những người dân địa phương thành người Serbia. Một gã có tên Popchevsky đã trở thành người thực hiện đắc lực chiến dịch này. Y được lệnh quyết định số phận mọi người theo ý mình.

Và ngay lập tức bắt tay “xử lý” những người gốc Bungaria hoặc những người có cảm tình với dân Bungaria. Popchevsky không bỏ qua quá khứ của Pande. Một lần, trong lúc thu hoạch vụ mùa, Pande bị bắt và giải lên đồn. Ông bị đánh đập và tra tấn, rồi trả về nhà, nhưng chẳng bao lâu ruộng đất bị tịch thu.

Tai họa lớn đến mức gia đình ông Pande nhiều năm liền không kịp hoàn hồn và rơi vào cảnh bần cùng. Ông Pande không còn lối thoát nào khác là đi làm thuê. Một sự kiện tưởng vui mừng như sinh con, trong hoàn cảnh mới của họ, chỉ thêm gánh nặng. Năm 1932, bà Tanka sinh một bé trai, được đặt tên là Vasil. Ông bố đi chăn súc vật thuê ở một làng bên cạnh, sau chuyển sang làng khác…Ông không thể gượng dậy được nữa.

Vanga đã lên 11 tuổi. Cô chăm chỉ giúp đỡ việc nhà. Vừa trông em vừa nghĩ ra những trò chơi để tự chơi một mình. Nhưng một trong những trò chơi “huyền diệu” của cô đã khiến bố mẹ lo lắng. Sự bất thường của nó ở chỗ cô đóng vai một “người mù”. Ví dụ, cô để ngoài đường hay cạnh nhà một vật nào đấy và bắt đầu đi tìm nó, sờ soạng khắp nơi, như là người mù. Bố mẹ tìm cách cấm Vanga chơi trò đó, nhưng cô không nghe.

Trong thời gian đó, em trai của ông Pande, Konstadin, được tin về hoàn cảnh gia đình của anh trai. Số phận của Konstadin diễn ra may mắn hơn: ông trở nên giàu có, cưới vợ, nhưng Trời không cho ông con cái. Biết tin gia đình anh trai gặp hoạn nạn, Konstadin mời họ chuyển đến ở với mình. “Việc gì phải chịu khổ ở Strumitsa, tốt nhất hãy đến giúp em chăn súc vật, em sẽ không phụ công anh”. Lời mời được chấp nhận, và năm 1923, gia đình chuyển về Novo-Selo.

(Theo SKĐS)

Leave a Reply