Tuy nhiên, luật lệ của liên bang, tiểu bang, và thành phố hình như đang thay đổi từng ngày, do đó những đòi hỏi mới có thể được ban hành bất cứ lúc nào.
Hầu hết các chung cư đang gởi email và thông báo cho các gia đình biết nếu một trong số các láng giềng của họ đã bị nhiễm virus để họ có thể áp dụng các biện pháp đề phòng. Tuy nhiên, các luật sư địa ốc đã mạnh mẽ khuyên các ban quản trị, các quản lý chung cư, và các quản lý bất động sản không nên tiết lộ ai là người đã bị nhiễm virus và họ đang sống trong căn nào. Và các cư dân không thể bị trục xuất hoặc yêu cầu dọn đi chỉ vì họ bị bệnh.
Trên quan điểm luật pháp, chúng ta đang ở trong một vùng đất chưa từng có người đặt chân tới, theo lời ông Scott Moore, luật sư nhà đất của công ty Baird Holm, trụ sở tại Omaha, Nebraska.
Đạo luật gia cư công bằng của liên bang cấm những câu hỏi về chuyện liệu một người thuê có bị tàn tật hay không và bản chất cũng như mức độ tàn tật của họ. Điều đó cũng bao gồm những câu hỏi về tình trạng y khoa của họ.
Nhưng các quy định của liên bang và tiểu bang đang hình thành và được sửa đổi giữa lúc cuộc khủng hoảng gia tăng. Do đó, chỉ vì hôm nay không có những đòi hỏi phải tiết lộ về COVID-19, điều đó không có nghĩa sẽ không có những đòi hỏi đó vào ngày mai.
Các quản lý viên tòa nhà có thể tiết lộ những gì về một cư dân bị nhiễm COVID-19?
Cũng không có bất cứ hướng dẫn phổ quát cho những công ty và hội đồng quản trị về những gì họ có thể nói với các hàng xóm lo ngại về chuyện một người bị lây nhiễm đang sống trong tòa nhà của họ.
Vài người không thông báo cho các cư dân, nhưng vài người khác có thông báo, điều khiến nhiều luật sư địa ốc tin rằng họ đã đi quá xa trong việc làm hại sự riêng tư của người bệnh.
Mục đích là giữ cho những người khác khỏi bị lây nhiễm.
Nó cũng nhằm bảo vệ sức khỏe của ban nhân viên của tòa nhà. Không ai muốn người quản lý hoặc các nhân viên khác trong tòa nhà vô tình bước vào một căn chung cư có người bị bệnh để thực hiện một sửa chữa nhỏ và rồi bị nhiễm virus.
Nhưng hầu hết các quản trị viên chung cư rất nhạy cảm về nhu cầu phải nhớ rằng một cư dân bị lây nhiễm không thoải mái nếu bị phát giác.
Việc tiết lộ trái với những mong muốn của người bị lây nhiễm có thể làm cho ban quản trị bị thưa kiện.
Tuy nhiên, các chung cư không tiết lộ việc một người bị lây nhiễm đang sống tại đó cũng có thể khiến cho họ bị kiện cáo.
Các cư dân phải thông báo cho ban quản trị nếu họ bị nhiễm COVID-19?
Các hàng xóm lo ngại có thể phải tiếp tục phỏng đoán liệu có ai trong tòa nhà của họ bị bệnh vì nhiễm virus hay không. Như chúng ta đã đề cập, về mặt pháp lý, các gia đình không bị đòi hỏi phải cho những người ở tầng dưới, cuối dãy, hoặc căn kế cận biết về tình trạng sức khỏe của họ, và các láng giềng của họ cũng không có quyền về mặt pháp lý để biết điều đó.
Tuy nhiên, về phương diện đạo lý, vài gia đình lý luận rằng họ nên cho biết. Điều này cho phép ban quản trị làm sạch lối đi, thang máy, và các cầu thang của người bị lây nhiễm thường xuyên hơn một chút và có thể thêm một lọ thuốc sát trùng bàn tay ở hành lang. Và nó cho phép các cư dân cẩn thận hơn khi vào một phòng chứa đồ hoặc mở cửa trong tòa nhà.
Nhưng vài gia đình có thể sợ bị xa lánh vì ở trong căn nhà có người nhiễm COVID-19.
Sự bảo vệ riêng tư như vậy đối với các cư dân có thể mở rộng tới các nhân viên quản trị tòa nhà. Các cư dân sẽ muốn biết liệu một người thợ làm việc vặt đã bị lây nhiễm có vào căn nhà của họ hay không.
Và nếu các công nhân như vậy ra mặt tiết lộ, các tòa nhà không thể nhốt họ trong các căn chung cư của họ hoặc đòi hỏi họ không sử dụng thang máy hoặc các không gian chung đụng khác mà không có lệnh tòa án. Những gia đình này cũng không thể bị trục xuất hoặc được yêu cầu tạm thời dời đi chỉ vì bị nhiễm virus.
Không có luật lệ nào về bất cứ tình huống nào như thế này. Mọi luật lệ sẽ được đặt ra khi gặp trường hợp đòi hỏi. (N.N)